Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2012

Đức Phật: con người của mọi thời đại

Gần 25 thế kỷ trôi qua, Đức Phật: một con người có thật trong lịch sử nhân loại - vẫn còn để lại những dấu ấn đầy tính nhân bản với những lời dạy của Ngài làm cho con người có nhiều suy tư về vị giáo chủ đã tuyên bố: "Con người và chỉ có con người mới có thể thực hiện những hoài bão lý tưởng hưóng đến Phật quả". Chúng ta có thể gọi Đức Phật là một con người tuyệt vời trong nhân tính và cũng chỉ có Đức Phật là vị giáo chủ duy nhất trên hành tinh chúng ta khẳng định vị trí của con người: "Các Người là nơi nương tựa của chính mình, là hòn đảo chứ không còn nơi nương tựa nào khác". Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật trong hơn 40 năm hoằng pháp lợi sanh.
Hôm nay chúng ta nhìn lại nền giáo lý của Đức Phật trong hoàn cảnh các dân tộc trên thế giới bước vào thiên niên kỷ mới, mọi người không phân biệt Âu, Á, màu da, chủng tộc đều mong muốn có một xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ ; con người không còn khổ đau bệnh tật và đói nghèo. Điều này không phải của riêng ai mà của cả toàn nhân loại trên hành tinh này đều hướng về con đường lý tưởng đó. Trong dòng chủ lưu đó con người là chủ nhân ông quyết định và điều này lại khẳng định một lần nữa vai trò của nền giáo lý Đức Phật không phải là vô ích, nếu không muốn nói là giáo lý đó có những tư tưởng tiến bộ để con người tự xây dựng một xã hội mà con người đang đi tìm giải pháp.

Đức Bổn Sư Thích Ca tên là Sidhartha họ Gotama, ra đời cách đây hơn 2.500 năm tại Bắc Ấn Độ vào TK VI trước Tây lịch. Thân phụ là Suddhodana (Tịnh Phạn) cai trị vương quốc của dân tộc Kàkyas (Nepal ngày ngay),mẹ là Hoàng hậu Maya.Theo tục lệ lúc bấy giờ Ngài kết hôn với Công chúaYasodharà(Da-du-đà-la).Là một Thái tử đương triều sống trong cung điện đầy đủ tất cả những vật chất xa hoa, nhưng khi va chạm với đời sống bình thường thực tại, Ngài nhận thấy khổ đau của kiếp người,Ngài quyết định bỏ lại sau lưng uy quyền và địa vị để tìm giải pháp cứu mình và cứu người.

Trong 6 năm làm một nhà khổ hạnh, Đức Phật đã đi khắp thung lũng sông Hằng tìm học những vị thầy nổi tiếng lúc bấy giờ,nhưng Ngài thất vọng vì họ không chỉ dạy được gì mà Ngài muốn đến. Đức Phật đã từ bỏ tất cả những phương pháp mà Ngài đã học,đi theo con đường riêng của Ngài. Và một hôm Ngài phát đại nguyện dưới cội cây bồ đề trên bờ sông Neranjarà(Ni Liên Thiền) tại Buddha-Gaya(Bồ Đề Đạo Tràng) xứ Bihar ngày nay: " Dù thân ta có tan thịt ta có nát, nếu không tìm ra đạo,ta nguyện không rời chổ ngôì nầy".

Từ nơi đây Ngài thực sự đạt được đỉnh cao của trí tuệ, thành bậc Giác ngộ, chuyển bánh xe Chánh pháp đem lại lợi lạc cho con người với những phương pháp mà Ngài đã tìm ra được ; và cũng từ đó những phương pháp mà Đức Phật đưa ra như là những phương thuốc trị những căn bệnh mà loài người đang gặp phải : "Hỡi các Tỳ kheo, có hai thứ bệnh. Hai bệnh ấy là gì ? Bệnh thể xác và bệnh tinh thần. Có những người hưởng sự vô bệnh và thể xác trong một năm, hai năm...cả đến trong một trăm năm hay hơn nữa. Nhưng này các Tỳ kheo, hiếm thay trong thế gian này là những người hưởng được sự vô bệnh về tinh thần, ngay cả trong chốc lát, trừ phi những người thoát khỏi sự xấu xa ô uế" (chỉ cho những vị đắc A-la-hán). Hình ảnh giáo lý và nhân cách của Ngài vẫn là bức thông điệp nhân bản muôn đời gởi đến cho nhân loại.Những lời dạy của Đức Phật đã thành những điệp khúc bất tuyệt vượt ra ngoài không gian và thời gian, những lời dạy đó nhằm vào tinh thần giải thoát cho con người thoát khỏi khổ đau bởi những trói buộc của phiền não và vạch ra con đường để cho những ai muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của kiếp nhân sinh. Có người cho rằng giáo lý của Phật dạy quá cao siêu khó có thể ứng dụng trong đời sống hàng ngày trong nền phát triển KHKT hôm nay ; vì nếu muốn trở thành những người Phật tử phải từ bỏ việc này, ngăn ngừa việc khác trong khi đời sống bình thường của con người ngày nay thực hiện vì "cơm, áo, gạo ,tiền" để mưu sinh cho gia đình và cho chính bản thân họ. Đó là một quan niệm sai lầm về giáo lý Đức Phật.Thông thường phần đông thường đi đến kết luận một cách vội vã, chủ quan ,chỉ hiểu được một khía cạnh thiên lệch sau khi đọc một quyển kinh hay một cuốn sách Phật của một tác giả nào đó mà lại không hiểu hết những giáo lý cốt lõi của Đức Phật. Điều này trong thời điểm này hay trong những thời điểm khác, ở Việt Nam hay một số quốc gia trên thế giới, đã từng có những quan niệm sai lầm của một số người khi đặt bút viết về giáo lý của Phật hay về những vấn đề liên quan đến Phật học, đó là chưa kể những người cố tình bóp méo hay gán ép cho Đức Phật và giáo lý của Ngài, với ý đồ nào đó(?) . Ở đây chúng ta không phải biện minh cho những kiến giải hơn thua phải quấy của những người con Phật, mà chúng ta xác định tinh thần Phật dạy như là quan niệm sống thực nghiệm giúp con người trong thời đại của Ngài và ngay trong thời điểm hôm nay và mai sau. Giáo lý đó là một chân lý vượt ra ngoài phạm trù của thời gian và cả không gian, và những lời dạy của Đức Phật thực sự có ích cho con người. Nền giáo lý của Đức Phật không phải chỉ dành riêng cho người xuất gia hay tại gia tu theo Phật, mà đó là của mọi người muốn ứng dụng nó vào đời sống tâm linh,mà không có sự phân biệt quy y hay chưa quy y theo Phật .

Tất cả mọi người không phải ai cũng bỏ cuộc đời, đi vào chùa hay tu viện xa lánh cuộc đời, ẩn dật chốn nào đó của núi rừng, am cốc. Đạo Phật dù có thuần khiết cao cả đến đâu cũng sẽ trở thành vô dụng đối với mọi người vì không "đại chúng hóa"vì họ không thể áp dụng đựơc trong đời sống hàng ngày.Trái lại khi mọi người hiểu đúng tinh thần Phật dạy, xem như là một triết lý sống, đem áp dụng vào cuộc đời mà không phải xa lánh cuộc đời thì đó mới thực sự là một tôn giáo có lợi ích thiết thực. Như vậy rõ ràng Đức Phật và giáo lý của Ngài không bao giờ khuôn biệt trong một mô thức bắt buộc nào mà chỉ khuyên mọi người nên áp dụng tu tập thực hành Pháp trong điều kiện và hoàn cảnh mà mình đang sống, không khuyến khích con người chạy đi tìm cầu, điều kiện khác mà con người chưa có thể thực hiện được. Trong kinh Phật có nhiều câu hỏi của cư sĩ Vacchagotta được đặt rá: "Bạch Đức Thế Tôn, có người nam và nữ nào đệ tử của Phật sống đời sống thế tục thực hành giáo lý của Ngài mà có hiệu quả, mà đạt được những trạng thái tâm linh cao siêu không ?". Đức Phật đã khẳng định không phải 100 hay 500 mà còn nhiều hơn thế nửa. Qua đó cho chúng ta một quan niệm về Đức Phật và giáo lý của Ngài.

Ở thời đại ngày nay khi kinh tế thị trường như là một yếu tính của thời đại và nó được xem như một nhu cầu phát triển xã hội loài người, vậy giáo lý của Phật dạy có ảnh hưởng gì không trong sự tu tập? Chúng ta hãy xem một đoạn kinh Đức Phật có đề cập đến nền kinh tế : "Một hôm Đức Phật bảo ông Cấp Cô Độc - một thương gia danh tiếng: "Này cư sĩ, sống thường nhật có 4 thứ hạnh phúc:
1/Sở hữu lạc : sự thọ hưởng bảo đảm về kinh tế hay tài sản kiếm được bằng phương tiện chính đáng.
2/ Thọ dụng lạc : Tiêu dùng tài sản đó một cách rộng rãi,cho chính mình ,cho gia đình bà con,bè bạn, trong những việc công đức.
3/ Vô trái lạc : Không bị nợ nần đeo bám.
4/ Vô tội lạc : Sống một đời sống trong sạch, không phạm những điều ác trong công việc mưu sinh ngoài xã hội".

Qua những điều nêu trên cho chúng ta thấy Đức Phật đã có những cái nhìn thấu đáo về nền kinh tế trong thời kỳ của Ngài khi dạy một cư sĩ sống làm sao để có hạnh phúc, Ngài không cho rằng chỉ thuần có đời sống tinh thần ; mà phải làm sao quân bình giữa đời sống vật chất và tinh thần . Một mặt Phật giáo khuyến khích con người cần có sự tiến bộ phát triển về vật chất, mặt khác Ngài cũng nhấn mạnh đến sự phát triển về đạo đức và tâm linh để có một xã hội hoà bình an lạc.

Ngày nay con người sống trong hận thù,sợ hãi lo âu và khủng hoảng, nghi ngờ đố khau một cách căng thẳng. Nền công nghệ KHKT phát triển một cách chóng cả mặt mày. Đứng trước sự sợ hãi do chính mình tạo ra, bao nhiêu thiên tai thảm họa đang đè nặng lên vai con người trong thiên niên kỷ mới phải khắc phục ; thông điệp của Đức Phật dù cách đây hơn 25 thế kỷ, nhưng khi nhìn vô số lời dạy còn lưu lại cho đến hôm nay, mọi người con Phật đều có thể xem như là kim chỉ nam trong việc xây dựng đời sống cộng đồng. Nơi tiềm tàng trong nền giáo lý và nhân cách của Phật mọi người có thể rút ra một bài học ứng xử giúp con người tìm về chính mình, làm chủ vận mệnh tương lai do mình tạo ra. Đó là tình thương, khoan hồng, rộng lượng , thông cảm, tôn trọng đối với mọi sự sống hãy vứt bỏ đi lòng ích kỷ, hận thù và bạo động... Nhân loại đang sống trong bản lề của một thiên niên kỷ mới cũng sống và mong ước thế giới không còn hận thù khổ đau mà chúng ta hằng mong muốn : "Tâm tịnh quốc độ tịnh".Trước khi nhập Niết Bàn Đức Phật đã ân cần tuyên bố: "Bất luận Chơn Lý nào mà Như Lai đã truyền dạy, các người hãy thực hành một cách khéo léo,trao dồi phát triển đầy đủ, để đời sốngthiêng liêng được duy trì trường tồn vĩnh cửu,vì tình thương chúng sanh,vì sự tốt đẹp và hạnh phúc của nhiều người...". Những lời nầy làthông điệp muôn đời của tình thương yêu nhân loại gởi đến cho toàn thể mọi người khắp hành tinh đang thực hiện lời dạy của Ngài, hãy vì hạnh phúc của nhiều người, hãy xây dựng hạnh phúc cho mình cho người.
Thích Thiện Bảo

giacngo.vn

Ý nghĩa ngày xuất gia của... Đức Phật


Hàng năm, cứ đến ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch, Phật tử khắp nơi lại thành tâm làm lễ kỷ niệm ngày xuất gia của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.


Từ bỏ... cung vàng, điện ngọc
Vào ngày rằm tháng 4, năm 623 trước công nguyên tại vườn Lâm Tỳ Ni gần thành Ca Tỳ La Vệ, một nơi hiện nay là vùng biên giới giữa Nepan và Ấn Độ. Đức Phật Thích Ca đã giáng sinh có tên là Tất Đạt Đa, làm Thái tử con vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da. Vua Tịnh Phạn trị vì một vương quốc nhỏ của bộ tộc Thích Ca.

images858241_1a_jpg.jpg
Thái tử Tất Đạt Đa quyết định từ bỏ thế gian, xuất gia tu hành - Tranh PG

Thế nhưng, với thời gian, do suy tư sâu sắc và lòng thương người bẩm sinh, Thái tử không thể nào cam tâm một mình sống mãi trong nhung lụa, giữa một xã hội bất công, một thế giới đau khổ.

Thái tử sớm giác ngộ về tính tạm thời, tầm thường của hạnh phúc vật chất thế gian và có ý chí xuất gia cầu đạo giải thoát, tìm ra con đường cứu vớt chúng sinh ra khỏi già, đau, chết và mọi nỗi bất hạnh khác của đời người.

Ngài thấy cảnh đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân thật mà là giả dối, mê muội, chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề đau khổ.

Đặc biệt, qua trải nghiệm thực tế ở bên ngoài, Ngài đã nhận thấy mình dù là Thái tử con vua, cũng không thể thoát khỏi cảnh già, đau và chết.

Mặt khác, qua câu nói của vị Sa môn: “Tôi tu hành là quyết dứt bỏ mọi sự ràng buộc của cuộc đời, cầu thoát khổ, viên thành chính giác để phả độ chúng sinh đều được giải thoát” đã giúp Thái tử sớm thấy được con đường dẫn đến giác ngộ, vĩnh viễn khắc phục mọi nỗi khổ đau và bất hạnh của đời người, con đường dẫn tới cõi Niết bàn bất tử.

Từ đó, Thái tử nuôi dưỡng quyết tâm từ bỏ gia đình, xuất gia cầu đạo. Ngài thấy cần phải tìm một lối thoát, một cuộc sống chân thật, có ý nghĩa và cao đẹp hơn.
Lúc này, với Thái tử, lâu đài, cung điện không còn là nơi ở thích hợp nữa. Lòng Ngài nặng trĩu tình thương chúng sinh đang chìm đắm trong bể khổ. Ngài càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, đi tìm con đường cứu khổ cho muôn loài.

Nhằm đêm mồng 8 tháng 2 âm lịch, Thái tử từ bỏ tất cả, phụ vương, ngai vàng, vợ con, cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc của một hoàng tử, khoác trên mình bộ áo màu vàng đơn giản của người tu sĩ, từ nay bắt đầu cuộc sống không nhà của người xuất gia cầu đạo. Khi đó Ngài mới 19 tuổi.

Trở thành bậc Thánh giữa thế gian
Sau 49 năm thuyết pháp độ đời, bằng cuộc đời của Ngài và bằng những lời dạy của Ngài được kết tập lại trong 3 tạng kinh điển (Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng), Đức Phật đã khai thị cho loài người biết rằng: “Bất cứ một người nào, với sự nỗ lực của bản thân, đều có thể vươn lên tới đỉnh cao nhất của giác ngộ và giải thoát, như chính Đức Phật vậy”.

wynghiaxuatgia2.jpg
Tôn tượng Đức Phật nhập Niết bàn ở Ấn Độ

Khi vào trong Đạo, Ngài là người có địa vị cao nhất nhưng Ngài luôn rong ruổi trên mọi nẻo đường, gai góc để đưa dắt chúng sinh lên con đường hạnh phúc, an vui và giải thoát hoàn toàn. Lòng thương của Ngài thật là vô lượng, ân đức của Ngài thật vô biên.

Đó là lý do tại sao không có một tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là Đạo Phật. Tính nhân bản tuyệt vời của Đạo Phật chính là ở chỗ đó.
“Tránh mọi điều ác, làm mọi điều lành, gột sạch nội tâm để trở thành bậc Thánh, một con người hoàn thiện về đức hạnh và trí tuệ. Mỗi người chúng ta đều có khả năng và bổn phận thực hiện lời dạy đó” - Đó là bức thông điệp mà Đức Phật đã trao cho loài người chúng ta.

Mặc dù Đức Phật đã Niết bàn nhưng gương sáng của đời Ngài vẫn còn sáng rực trước mắt chúng ta. Suốt một đời, trong 80 năm trời không một lúc nào Ngài xao lãng mục đích tối thượng là hóa độ chúng sinh đang trầm luân trong biển khổ.

Lịch sử Đức Phật Thích Ca là lịch sử một con người, nhờ chính công phu tu tập của bản thân, đã trở thành một con người hoàn thiện, một bậc Thánh giữa thế gian. “Con người vĩ đại nhất sinh ra ở đời này” - thi hào Ấn Độ Tagore nhấn mạnh.








Niên lịch của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Theo kinh điển đại thừa)
- Đức Phật giáng sinh ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch
- 19 tuổi xuất gia, nhằm ngày mùng 8 tháng 2 âm lịch
- 5 năm tầm học các đạo
- 6 năm tu khổ hạnh
- 49 ngày nhập định
- 30 tuổi thành đạo, nhằm ngày mùng 8 tháng Chạp
- 49 năm thuyết pháp độ đời
- 80 tuổi nhập Niết bàn, nhằm ngày Rằm tháng 2 âm lịch
Bùi Hiền (bee.net.vn)
Bài viết có sử dụng tài liệu của: Tự Viện Linh Sơn, Đại tạng kinh Việt Nam, Phật học phổ thông của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
giacngo.vn

Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2012

Nhân mùa Phật Đản bàn về tích đản sanh

Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịch là hoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời. Lịch sử kể rằng bà Ma Da, công chúa của một nước láng giềng, là phu nhân của vua Tịnh Phạn nước Ca Tỳ La Vệ, khi có thai, theo phong tục của xứ mình phải trở về quê mẹ để sinh nở
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịch là hoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời. Lịch sử kể rằng bà Ma Da, công chúa của một nước láng giềng, là phu nhân của vua Tịnh Phạn nước Ca Tỳ La Vệ, khi có thai, theo phong tục của xứ mình phải trở về quê mẹ để sinh nở. Trên đường về, trong lúc dừng chân nghỉ ngơi tại vườn Lâm Tỳ Ni, hoàng hậu Ma Da đã hạ sinh Thái tử. Khi Thái Tử sinh ra thì được chư Thiên đến nâng đón và tắm rửa.  Sau đó, lúc để xuống đất, Ngài đã bước bảy bước và dưới mỗi bước chân là một bông sen nở. Thái Tử đưa tay lên trời mà nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn“.
tamphat (15).jpg
Ðó là bảy bước chân và lời nói đầu tiên của Ngài. Ai là người Phật tử cũng biết lịch sử Phật Ðản Sanh cùng những lời giải thích khác nhau về ý nghĩa bảy bước đi và lời tuyên thuyết đầu tiên này. Có nhiều người, trong cũng như ngoài đạo Phật, thắc mắc không hiểu vì sao đạo Phật là đạo phá ngã chấp mà đức Phật lại nói chỉ có Ngài là tôn quý nhất, không những trong thiên hạ mà còn khắp các cõi trời và cõi người nữa. Có nhiều vị lại cho rằng tất cả hàng trời người đều tôn xưng Ngài là “Ðấng Thế Tôn” thì như thế câu nói trên cũng không phải sai và cũng không trái với giáo lý giải thoát… vân vân và vân vân.  Thật ra trong kinh Phật, có giải thích sự kiện này. Hôm nay nhân mùa Phật Ðản, người viết xin được trình bầy thêm, y cứ vào kinh điển và ý nghĩa lời kinh, để làm sáng tỏ.
Về câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” dịch ra tiếng Việt là: “Trên trời dưới trời, chỉ có ta là tôn quý“. Câu này chỉ là một phần câu, được ghi trong Kinh Sơ-Ðại Bản-Duyên trong bộ Kinh Trường A hàm Quyển Một, một quyển kinh ngắn lược thuật nhân duyên giáng sanh, thành đạo và giáo hóa của bảy đức Phật trong thế giới Ta Bà. Nguyên văn câu đó được dịch như sau: “Trên trời dưới trời, duy ta là tôn quý, ta muốn cứu độ chúng sanh khỏi vòng sinh già bệnh chết” [1][2]. Ðó là lời Ðức Phật Thích Ca thuật lại khi Ðức Phật Tỳ Bà Thi, vị Phật thứ nhất bổ sanh trong thế giới Ta Bà, ra đời đã nói lên lời như vậy, cũng giống như Ngài (Phật Thích Ca) đã nói lên lời như vậy, và “ấy cũng là thông lệ của chư Phật” [3]
Xét về mặt ngôn ngữ, câu trên cho thấy rằng chỉ có Ngài là bậc tôn quý nhất trong loài người và trời, Ngài đã thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi và thị hiện cõi Ta Bà để cứu độ chúng sinh thoát khỏi vòng sinh tử như Ngài. Tuy nhiên, nếu xét về mặt ý nghĩa của câu nói, chúng ta nên hiểu chữ “Ta” trong câu “duy có ta là tôn quý” không phải là cái Ta của Thái Tử Tất Ðạt Ða, một cái Ngã sinh diệt như cái Ngã của trăm ngàn chúng sinh khác. Chữ Ta ở đây chính là Phật Tánh, là Chân Tâm, chẳng hề sanh chẳng hề diệt, hoàn toàn thanh tịnh, là cái xa lìa tất cả những cái gì gọi là đối đãi. Cái Ta đó hay cái Ngã đó chính là Chân Ngã, chính là Pháp Thân thường trụ, không bao giờ hoại, bao trùm khắp không gian và thời gian. Trong kinh Ðại Bát Niết Bàn, phẩm Như Lai Tánh, đức Phật dạy: “Ngã tức là nghĩa Như Lai tạng. Tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh tức là nghĩa của ngã. Nghĩa của ngã như vậy từ nào tới giờ thường bị vô lượng phiền não che đậy, vì thế nên chúng sinh chẳng nhận thấy được.” Cũng trong kinh này (Phẩm Tứ Tướng), Phật nói rõ “thân của Như Lai tức là Pháp Thân, chẳng phải thân thịt máu mạch gân xương tủy hợp thành. Vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ, vì tùy thuận cách sanh của chúng sinh mà thị hiện làm đứa trẻ...”.
Thật ra, Phật Tánh hay Chân Tâm hay Chân Ngã hay Pháp Thân là một cái gì khó hiểu, khó nhận biết và khó trình bày vì thực chất của nó nằm ngoài ngôn ngữ, ngoài thế giới tương đối hiện tượng.  Chúng ta chỉ có thể biết qua nhận thức, qua kinh điển rằng: Phật Tánh là một cái gì đó chỉ có người chứng ngộ mới biết được, là một cái gì đó “không sanh không diệt, không đi không đến, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng phải do nhân làm ra, cũng chẳng phải không nhân, chẳng phải tự tác, chẳng phải tác giả, chẳng phải tướng, chẳng phải không tướng, chẳng phải có danh, chẳng phải không danh, chẳng phải danh sắc, chẳng phải dài ngắn, chẳng phải nhiếp trì trong ấm, giới, nhập…”.
Khi nói về Phật Tánh, Ðức Phật thường dùng phương cách lìa tứ cú để dạy chúng ta, có nghĩa là lìa khỏi bốn kiến chấp hay bốn phạm trù thế gian tương đối: có, không, cũng có cũng không, chẳng có chẳng không.  Ngoài ra Ngài cũng dùng tỷ dụ hay phương thức ngụ ngôn, hàm chứa những ý nghĩa thâm thúy, ám thị lý tuyệt đối mà chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời trực tiếp mà giảng giải vì lời chỉ là khí cụ diễn đạt cái tư tưởng tương đối, cái có hình, có tướng trong thế giới nhị nguyên.  Như khi nói về Chân Tâm Phật Tánh, ngài kể trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn về một cô gái nghèo, trong nhà có kho vàng ròng mà không biết, đến khi có người khách khéo biết phương tiện chỉ cho chỗ cất giữ kho báu, cô trở nên giầu có. Người khách khéo biết phương tiện dụ cho Phật, cô gái nghèo dụ cho vô lượng chúng sinh hiện bị các phiền não che đậy và kho vàng ròng chỉ cho Phật Tánh Chân Tâm.  Câu chuyện gã cùng tử hay viên ngọc châu trong đáy túi áo trong Kinh Pháp Hoa cũng tương tự.
Như vậy, khi nói câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn Ðức Phật, lúc ấy là Thái Tử Tất Ðạt Ða, không nói về cá nhân ngài, về cái thân tứ đại ngũ uẩn sinh diệt, mà nói về cái Tâm Chân Thật, cái Ngã Chân Thật của chúng sinh. Chính cái Tâm đó mới là tôn quý, mới là tối thượng và cái Tâm Chân Thật đó chính là Tâm Phật mà ai ai cũng có, bất luận giầu nghèo sang hèn, bất luận mầu da ngôn ngữ, bất luận tôn giáo chính kiến.
***
Bây giờ nói về bảy bước chân trên bảy đóa sen nở của Phật. Tại sao không phải là ba bước, sáu bước hay tám bước. Có người giải thích theo tư tưởng kinh Hoa Nghiêm là toàn thể vũ trụ trên, dưới, trong, ngoài, phải, trái và chính giữa. Từ vật nhỏ như vi trần đến vật lớn như núi tu di tất cả không ngoài con số 7. Con số 7 là tổng số của 6+1, là biểu thị cho một tổng thể không gian và tổng thể thời gian. Đây là biểu tượng cho sáu hướng không gian và một trung tâm; 6 hướng ở đây là 4 phương (Đông Tây Nam Bắc) và hai hướng của trục vũ trụ thẳng đứng (thiên thượng: tay phải chỉ trời và thiên hạ: tay trái chỉ đất). Ngoài ra, bảy bước theo tư tưởng kinh Lăng Nghiêm thì thế giới nhân sinh và vũ trụ được hình thành từ con số 7, tức bảy đại: địa đại (đất), thủy đại (nước), phong đại (gió), hỏa đại (lửa), hư không đại, kiến đại (nhìn thấy), và thức đại (nhận biết). Lại có người giải thích Ngài bước bảy bước là vì “Ngài là vị Phật thứ bảy”, tiếp nối sáu vị Phật đi trước, mà bắt đầu là Phật Tỳ Bà Thi.
Còn bảy đóa sen nở tượng trưng cho 7 quả vị Thánh (Tư đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, Ala hán, Duyên giác, Bồ Tát và Phật) là kết quả tu hành của bảy hàng để tử Phật gồm Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni, Thức Xoa ma na, Ưu bà tắc, và Ưu bà di….vân vân và vân vân.
Thật ra, con số bảy trong Phật giáo có rất nhiều tiêu biểu. Ngoài thất đại còn có thất bồ đề phần tức bảy cấp bậc tiến đến giác ngộ, biểu tượng cho trình tự tu chứng. Thêm vào đó, còn có thất giác chi, tức bảy pháp của người Phật tử cần phải tu tập để tiến tới giải thoát (Niệm Giác chi, Trạch Pháp Giác chi, Tinh Tấn Giác chi, Hỷ Giác chi, Khinh An Giác chi, Ðịnh Giác Chi, Xả Giác chi). Trong Kinh Thập Thượng thuộc bộ Kinh Trường Bộ, Ðức Phật có nói tới mười thứ “bảy pháp” [4] tổng cộng là bảy mươi pháp đã đưa Như Lai giác ngộ, chánh đẳng chánh giác (bảy tài sản, bảy giác chi, bảy thức trí, bảy tùy miên, bảy phi diệu pháp, bảy diệu pháp, bảy thượng nhân pháp, bảy tưởng, bảy thù diệu sự, bảy lậu tận lực).
Con số bảy mang nhiều biểu tượng như trên và bảy bước chân đầu tiên của Phật cũng có thể mang hàm ý như thế, tuy nhiên, ai là người Phật tử thấm nhuần đạo Pháp cũng đều hiểu rằng, không phải Phật chỉ bước có bảy bước với bảy bông sen nở dưới chân mà là bước vô lượng bước trong khắp cõi Ta Bà, trong khắp không gian vô tận và thời gian vô cùng. Không một chỗ nào, không một sát na nào mà không có bước chân Phật, mà không có hoa sen nở.
***
Ngoài bảy bước chân trên bảy đóa sen nở với câu nói bất hủ “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” như đã được giải thích trên, còn sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa ra đời bên hông phải của hoàng hậu Ma Da không giống như mọi trẻ khác làm sao giải thích được cho các thế hệ sinh ra và lớn lên tại các nước tân tiến ngày nay.  Thật ra, sự kiện này là theo truyền thuyết Phật giáo Bắc truyền được truyền tải qua các kinh tạng chữ Hán, như các kinh: Tu Hành Bản Khởi, Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Phật Bản Hạnh Tập, Trường A Hàm. Họ giải thích những vị Bồ Tát thị hiện là những bậc thanh tịnh không thích sự xuất thai theo sản đạo phổ thông của mọi người thường.  Ngoài ra một vị sư tu theo Thiền Tông giải thích sự kiện sanh bên hông phải là biểu trưng của Phật tánh, không phải là kết tinh do cha mẹ sinh ra, là tâm vô trụ siêu việt thiện ác đúng sai, vượt ngoài pháp đối đãi nhị nguyên. Đó là hai lối gỉai thích của những người tu theo Phật giáo Bắc truyền.  Tuy nhiên, sau khi tra cứu một số kinh tạng Pali, chúng tôi không thấy kinh văn nào nói đến việc Thái tử sanh ra từ hông bên phải hoàng hậu Ma Gia mà chỉ nói từ bụng mẹ sinh ra. “Này các Tỳ-kheo, pháp nhĩ là như vậy. Khi vị Bồ-tát từ bụng mẹ sanh ra, chư thiên đỡ lấy Ngài trước, sau mới đến loài người. Pháp nhĩ là như vậy“. (Trường Bộ Kinh Tập I Kinh Đại Bổn 14 – trang 451).
Nói tóm lại, sự đản sanh của Đức Thế Tôn, theo như kinh tạng Nguyên Thủy, là một con người bình thường, Hoàng hậu Ma Da cũng hoài thai như muôn ngàn thiếu phụ khác. Đúng ngày sinh nở, Thái tử Tất Đạt Đa cũng chào đời qua lòng mẹ như mọi trẻ khác.  Điều này nhằm bác bỏ quan điểm truyền thống sai lầm đã ăn sâu trong tín ngưỡng người Ấn Độ bấy giờ là Ngài không phải do Phạm Thiên (đấng tạo hóa) sinh ra.
Phật Đản 2011
Tâm Diệu (TVHS)
GiacNgo.vn

Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

Huyền thoại Đản sinh


Mỗi con người là một huyền thoại. Chúng ta ai ai cũng có huyền thoại từ khi còn trong trứng nước cho đến lúc mở mắt chào đời; những chuyện ly kỳ về mỗi người khi sinh ra đều được hai đấng sinh thành ghi nhớ và kể lại như là một điềm lạ về sự chào đời của đứa con thân yêu dù rất nhỏ nhoi, và đôi khi chúng ta bẵng quên mất khi đời sống quá ư bận rộn, mệt nhoài…
voitrang.jpg
Cũng thế, các vĩ nhân và thánh nhân xuất hiện trên thế gian này đều có những huyền thoại vĩ đại hơn chúng ta, đặc trưng của những huyền thoại hoặc sinh hay tử được lưu truyền từ đời này sang đời khác, bằng khẩu truyền, bằng bút ký hay bằng thiên hùng ca… Những câu chuyện huyền thoại xoay xung quanh cuộc đời của các vĩ nhân như là một sự minh chứng đối với sự hiện hữu tuyệt vời của họ trong một mốc son lịch sử và được truyền tụng cho đến bây giờ.
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp, phi phàm và thi vị nhất. Khi vừa mới mở mắt chào đời, Ngài đã nhẹ nhàng bước trên bảy đóa sen, tay phải chỉ lên trời, tay trái trỏ xuống đất và dõng dạc tuyên ngôn: "Ta là Đấng cao quý duy nhất trong thiên hạ" (I alone am the World-Honored One). Biết bao thế kỷ tang thương, cuộc dâu bể đổi dời, huyền thoại về sự ra đời của Ngài như vẳng nghe mới hôm nao bên những trang kinh tưởng chừng như chưa ráo mực.
Tương truyền, vào một đêm hoàng hậu Maha Maya mộng thấy con voi trắng sáu ngà từ cõi trời bay xuống trong tiếng nhạc vang lừng, quỳ xuống bên chân hoàng hậu, con voi dâng cho bà một cành sen hồng được mang từ cái vòi của nó. Thức giấc, hoàng hậu thấy cảm giác dễ chịu và khoan khoái với những mùi hương lạ thơm ngát căn phòng, và bà biết rằng mình đã thụ thai thái tử Siddhartha.
Vào một buổi sáng trời trong xanh, nắng đẹp, chim chóc vui hót, hoàng hậu Maha Maya đi dạo chơi trong vườn Lumbini, một khu vườn xinh đẹp thuộc thành Kapilavatthu, một lúc bà thấy mệt và vịn tay phải vào cành cây vô ưu (ashok tree) đang nở đầy hoa thì hạ sinh thái tử. Thái tử Siddhartha được sinh ra từ hông bên phải, ngay lúc ấy Ngài đứng dậy đi bảy bước, dưới chân Ngài nở bảy đóa sen, một tay chỉ trời một tay chỉ đất mà nói rằng: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn".
Hơn hai mươi sáu thế kỷ trôi qua, biết bao giấy mực luận bàn về huyền thoại này. Sự Đản sinh của Đức Phật đã trở thành đề tài muôn thuở cho các nhà nghiên cứu bình luận, là chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất từ xưa tới nay đồng thời cũng là tiền đề hứng thú nhất cho các nhà Phật học và thi nhân kim cổ.
Không ít các nhà phân tích Phật học cho rằng bảy đóa sen kia là tượng trưng cho bảy phần Bồ đề (hay Thất giác chi) - một trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo - là phương pháp tối yếu để giúp cho người học đạo và tu đạo giác ngộ, hoặc là yếu nghĩa của Tam thừa Tứ quả, và cũng không ít người cho rằng bước sen thứ bảy là sự giải thoát hoàn toàn từ sáu bước sen trước, như là sự vượt thoát sáu cõi luân hồi. Một số nhà bình luận khác thì cho rằng con số 7 là con số triết học thuần túy của Ấn Độ, với ý nghĩa không gian có bốn (Đông, Tây, Nam, Bắc), thời gian có ba (quá khứ, hiện tại và tương lai); thái tử đi trên bảy đóa sen tượng trưng cho sự vượt thoát về ý niệm của không gian và thời gian. Ngài sinh từ hông phải là biểu thị cho bản thể tuyệt đối vô nhiễm và câu tuyên ngôn: "Ta là Đấng cao quý nhất trong thiên hạ" là sự xác tín về Phật tính - vốn ẩn tàng trong mỗi chúng sinh… Tất cả khía cạnh lý giải đều có ý nghĩa nhất quán, mặc dù trên hình thức có đôi chút dị biệt, đó là sự giác ngộ về Chân tâm Phật tính xuyên qua truyền thuyết Đản sinh này.
Tuy nhiên, các học giả đứng trên lập trường khách quan thì cho rằng bảy bước hoa sen tượng trưng cho bảy phương hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới và Tại đây (East, West, North, South, Up, Down and Here). Và một tay chỉ trời, một tay chỉ đất là điềm lành báo hiệu sự hiện hữu của một vị cứu tinh cho cõi Thiên Nhơn - nối kết giữa trời và đất, giữa thiên đường và trần gian bụi bặm. Câu tuyên ngôn: "Ta là Đấng tôn quý nhất trong thiên hạ" theo quan điểm Phật giáo Phát triển là một cách nói khác để xác quyết về tính giác hằng hữu trong không gian vô cùng và thời gian vô tận bên trong mỗi chúng sinh.
Bên cạnh đó, không ít các bình luận gia ngoại đạo cho rằng huyền thoại Đản sinh của Đức Thích Tôn được vay mượn từ huyền thoại chào đời của thần Indra - vị thần cổ của Ấn Độ giáo vốn được truyền tụng ở trong văn học Rig Veda. Thần Indra cũng sinh ra từ bên hông của mẹ, và khi vị thần này chào đời có những hiện tượng lạ xảy ra như là nhật thực (1), trái đất vang động, núi non trời đất lung lay (2), tất cả các vị thần khác đều sợ hãi sự phẫn nộ của thần Indra…(3). Một trong những thi kệ của ca ngợi vị thần này: "Ồ Indra, sự khéo léo của người giống như bậc thầy của các Thiên chủ và loài người…" (4). Đặc biệt khi vừa ra đời thần Indra nói rằng ta sẽ là đấng thừa hành những sứ mệnh vĩ đại. Cũng có một số học giả khác cho rằng truyền thuyết Đản sinh của Đức Phật không ít thì nhiều có ảnh hưởng truyền thuyết Hy Lạp, khoảng thời gian sau khi Đại đế Alexander cai trị vùng Đông Á vào năm 334 BC, và có một sự hòa nhập đáng kể về tư tưởng và nghệ thuật giữa Phật giáo và Hy Lạp... Tất cả sự tranh cãi này không ngoài mục đích là đánh tan thần tượng thần thánh hóa Đức Phật.
Dù vậy không ai có thể chối bỏ được hình tượng hoa sen - một biểu tượng cho trí tuệ trong nghệ thuật Phật giáo, hoa sen còn đại diện cho sự tinh khiết và thanh cao của tâm linh. Bên cạnh đó, bảy bước hoa sen của Đức Phật chỉ cho bảy hướng: Đông, Tây, Bắc, Nam, Trên, Dưới và Tại đây thì không tương đồng với bất kỳ huyền thoại nào khác. Đức Phật ra đời trong một bối cảnh xã hội Ấn Độ đầy phức tạp. Mặc dù trong giai đoạn này thế lực chính thống của Bà La Môn giáo đã đến thời kỳ suy yếu, thay vào đó sáu phái triết học và bảy mươi hai tà kiến với nhiều lập trường triết thuyết tranh nhau hùng cứ khắp các khu vực thượng và hạ lưu sông Hằng. Sự ra đời của Ngài như để dàn xếp và thống nhất các học thuyết tư tưởng bằng sự giác ngộ thực tại Duyên khởi, và chỉ có Đức Thích Tôn mới làm được cuộc cách mạng lịch sử thống nhiếp các trào lưu tư tưởng đương thời. Và cho đến hôm nay, giáo lý giải thoát này vẫn mãi hiện hữu mầu nhiệm giữa lòng trời đất bao la, xuyên qua bốn phương Đông, Tây, Nam và Bắc của quả địa cầu này.
Ngoài bảy bước hoa sen, huyền thoại Đản sinh với câu tuyên ngôn: "Ta là Đấng cao quý nhất trong thiên hạ" đã làm chấn động cho tất cả người nghe với các thành phần xã hội. Câu tuyên ngôn này có mâu thuẫn chăng khi lập trường của Phật giáo là Vô ngã? Chúng ta không thể lý giải theo quan niệm "tự tôn" với một trẻ sơ sinh chưa có ý thức phân biệt. Tất cả các nhà phân tích đều đồng quan điểm rằng cái "Ta" trong câu nói trên như là một sự xác tín về Chân ngã - Phật tính vốn chi phối và điều động sự hiện hữu của thế giới. Cái "Ta" này biểu hiện dưới hình thái con Người - chính là Thượng đế tôn quý nhất trong thiên hạ, nhưng con người đã bỏ quên để rồi lang thang tìm cầu một Thượng đế xa xôi, vô vọng và rồi tự chuốc thêm vọng tưởng khổ đau! Một cách khác, câu nói này cũng là lời tuyên cáo rằng chỉ có Đức Phật mới là Đấng Thượng đế duy nhất bao hàm Trí tuệ và Từ bi viên mãn. Kokkali nói: "Trí tuệ của Đức Phật rộng lớn như biển khơi, và Thánh linh của Ngài là đầy đủ đức đại từ bi. Đức Phật không có hình thái cụ thể nhưng thể hiện chính mình trong sự hoàn thiện và dẫn dắt chúng ta bằng cả tấm lòng từ bi của Ngài (5). Do đó, sự thị hiện của Đức Phật không ngoài mục đích tạo dựng một thế giới của tình yêu thương và hòa bình trên căn bản của tuệ giác vô ngã vị tha.
Mỗi tôn giáo đều gắn liền với huyền thoại của Đấng giáo chủ theo thời gian huyền thoại ấy được tô điểm và truyền tụng như một sự linh thiêng, huyền bí. Cũng như những nhân vật nổi tiếng trên thế giới đều có huyền thoại của riêng mình. Trên tất cả huyền thoại, huyền thoại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giàu chất thi ca và nghệ thuật: sinh giữa rừng hoa, thành đạo dưới gốc cây, thuyết pháp giữa rừng cây và nhập diệt cũng dưới gốc cây, giữa núi rừng tĩnh mặc. Điều này đã nói lên rằng chỉ có Đấng Điều ngự Thế Tôn mới thoát khỏi được ngôi nhà tam giới, ngục tù của vô minh và ảo tưởng.
Không hình ảnh nào tuyệt đẹp và thi vị hơn hình ảnh Đản sinh của Đức Thích Tôn nhẹ nhàng bước trên bảy đóa hoa sen. Không có lời nói nào tạo nên sự sửng sốt và bàng hoàng muôn thuở như tuyên ngôn: "Ta là Đấng tôn quý duy nhất trong thiên hạ". Như là một công án, câu nói này là một lời thôi thúc cho mọi người tìm hiểu học thuyết Phật Đà, và "đến để mà thấy". Huyền thoại Đản sinh như là mệnh đề dẫn nhập hay nhất cho toàn bộ nội dung chi tiết của giáo pháp Phật Đà băng qua trên mọi ngôn từ và lý luận giả tạo của trần gian.  
TN.TỊNH QUANG
1). Ibid, I. 130.9. (2). Ibid, I.61.14 (3). Ibid, V.30.5 (4). Ibid, III. 34.2. (5). The Teaching of Buddha, Bukkyo Dendo Kokkali (Buddhist Promotion Foundation)
giacngo.vn

Tìm hiểu về Lễ Tắm Phật

Lễ Tắm Phật là một trong những nghi thức phổ biến của Lễ hội Phật đản hằng năm trong nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau. Nghi thức này vốn đã xuất hiện khá lâu tại Ấn Độ, Trung Á và Trung Hoa, và ngày nay được duy trì trong hầu hết các cộng đồng Phật giáo khắp nơi như là một cử chỉ, một hành động để tỏ lòng tôn kính, hân hoan của người con Phật đối với sự xuất hiện của đấng Giác Ngộ trên cuộc đời này, cách đây hơn 2.600 năm.
Nguồn gốc của Lễ Tắm Phật xuất phát từ sự kiện Đản sanh của Thái tử Tất-đạt-đa tại vườn Lâm-tỳ-ni. Các bản kinh thuộc hai truyền thống Nam và Bắc truyền đều ghi lại rằng, khi hoàng hậu Ma-da đản sanh thái tử, từ trên không trung có hai dòng nước của chư thiên, một ấm một mát, rưới xuống để tắm cho hoàng hậu và thái tử. sự kiện này được ghi lại trong kinh Đại bổn (Trường Bộ II), kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp (Trung Bộ III), lời mở đầu của bản chú giải truyện Bổn Sanh (Nidānakatha)[1]. Theo bộĐại sự (Mahāvastu), khi thái tử ra đời, hai dòng nước ấm và lạnh thơm dịu, trong lành từ trên không trung rưới xuống để tắm cho Thái tử[2]. Tác phẩm Phật sở hành tán của ngài Mã Minh cũng ghi lại như trên[3].
 
wwwTP (26).jpg
Lễ Tắm Phật
Riêng kinh Phổ diệu thì ghi lại rằng lúc ấy từ trên hư không có chín con rồng phun nước xuống để tắm cho thái tử[4]. Căn cứ vào các tác phẩm này, các nghệ nhân Phật giáo đã mô tả lại cảnh Đản sanh của thái tử với rồng phun nước trong nhiều tác phẩm điêu khắc tại Lộc Uyển phía Bắc Ấn và Amarāvatī tại Nam Ấn. Một tác phẩm thuộc trường phái Gandhara được lưu giữ tại bảo tàng Peshawar (Pakistan) mô tả cảnh hai cung nữ đứng hầu bên thái tử, bên trên có trời Đế Thích và Phạm Thiên rưới nước từ cành hoa sen để tắm cho thái tử, hai bên thái tử lại có bốn vị chư thiên đang cung kính chiêm ngưỡng.

Theo kinh Quá khứ hiện tại nhân quả, khi thái tử ra đời có bốn vị Thiên vương dùng vải quý cõi trời nâng thái tử, Thích Đề Hoàn Nhơn mang lọng báu cùng Đại Phạm Thiên đứng hầu hai bên. Lúc đó có hai vị Long vương là Nan-đà và Ưu-ba-nan-đà từ trên hư không phun hai dòng nước ấm và mát để tắm thân Thái tử[5]. Có lẽ chính sự cung kính của chư thiên đối với sự kiện Đản sanh của thái tử được mô tả trong bản kinh này đã tạo nguồn cảm hứng để về sau trong mùa Phật đản, người Phật tử thường tôn trí tượng Đản sanh trong một bồn hay thau sạch và quý, đặt trong điện thờ Phật hay một nơi nào đó trang nghiêm, dùng nước sạch có ướp các loài hoa thơm để làm lễ tắm Phật nhằm tưởng nhớ đến ân đức của Đức Phật và bày tỏ niềm tôn kính sâu xa đối với Ngài.

Tuy chưa thể xác định được thời điểm cụ thể của sự xuất hiện Lễ Tắm Phật tại Ấn Độ, nhưng điều chắc chắn là lễ nghi này vốn phát xuất từ Ấn Độ trước khi được lưu truyền đến các quốc gia Phật giáo khác. Kinh Đại bảo tích có ghi lại chuyện công chúa Vimaladattā, con gái của vua Ba-tư-nặc ở thành Xá-vệ cùng với năm trăm Bà-la-môn ra khỏi thành, mang theo những lọ đựng đầy nước để dự lễ tắm tượng của một vị trời. Đoàn người vừa ra khỏi cổng thành thì gặp một số vị Tỳ-kheo. Các Bà-la-môn này cho rằng việc gặp đoàn Tỳ-kheo như thế là điềm chẳng lành nên bàn nhau quay về. Nhưng khi ấy công chúa Vimaladattā bằng cung cách từ ái và trí tuệ sắc sảo của mình đã giải thích cho các Bà-la-môn, khiến họ khởi tâm kính tín đối với Phật pháp. Câu chuyện này cho thấy sự tương hệ nào đó giữa Lễ Tắm Phật trong Phật giáo và lễ tắm tượng các vị thần trong Bà-la-môn giáo. Từ xa xưa, tín đồ Ấn giáo xem sông Hằng như một vị nữ thần linh thiêng và rằng nước của con sông này có khả năng rửa sạch tội lỗi cho những ai có nhân duyên được tắm và cầu nguyện ngay trong dòng sông ấy. Nhưng trong kinh Tự thuyết (Udāna), Đức Phật đã khẳng định rằng không có nước của sông nào có thể rửa sạch được tội lỗi và làm cho con người ta được thanh tịnh, dù đó là sông Hằng hay sông Già-da, mà chính sự thực hành pháp chân chính mới giúp cho con người được tịnh hóa.

Tác phẩm Nam hải ký qui nội pháp truyện của ngài Nghĩa Tịnh (635-713), người đã rời Trung Hoa vào năm 671 và sau đó tu học tại Ấn Độ trong khoảng thời gian mười năm, là một trong những sử liệu quý ghi lại chi tiết về những sinh hoạt tự viện và các qui chế của Tăng đoàn Phật giáo đương thời tại Ấn Độ. Quyển thứ tư của tác phẩm này có thuật lại cách thức tắm rửa các tôn tượng trong những tu viện Phật giáo như sau: “Tại các tu viện ở những nước phía Tây (Ấn Độ và Trung Á), vào buổi sáng diễn ra lễ tắm các tôn tượng, vị Thọ Sự (Karmadāna - vị sư phụ trách) gióng kiền trùy, cho giăng lọng báu quanh sân chùa, sắp những bình nước thơm thành hàng dọc theo điện Phật, sau đó đặt tôn tượng bằng vàng hoặc bạc, đồng hay đá vào bồn bằng vàng hoặc đồng, đá, hay gỗ. Trong khi các thiếu nữ tấu nhạc cúng dường, các vị sư đem dầu thơm (làm từ chiên đàn, trầm hương) bôi khắp tượng rồi dùng nước thơm rưới tắm tôn tượng. Sau khi tắm rửa tượng xong, các vị sư lấy vải trắng sạch lau khô tượng rồi đem an trí lại trong điện Phật, dùng nhiều loại hoa trang hoàng quanh tượng. Nghi thức này do chúng Tăng trong chùa thực hiện theo sự hướng dẫn của vị Thọ sự. Tại các liêu phòng trong tu viện, mỗi ngày chư Tăng theo cách thức trên mà tắm rửa cẩn trọng những tôn tượng trong phòng mình[6]… đối với những tượng đồng, dù là nhỏ hay lớn, đều lấy tro mịn hay bột gạch để lau cho bóng, dùng nước sạch để tắm rửa cho đến khi tượng đẹp và trong như gương. Đối với tượng lớn, đại chúng trong tu viện cùng nhau lau tắm tượng trong mỗi nửa tháng hay mỗi tháng; còn với tượng nhỏ, nếu có thể, thì mỗi vị lau tắm mỗi ngày. Làm được như thế thì ít hoang phí, mà lại nhiều phước đức. Nếu lấy hai ngón tay thấm vào nước vừa được dùng để tắm tượng mà nhỏ lên đầu, thì đó gọi là nước cát tường. ”[7]

Tại Trung Hoa, sách Ngô thư là một trong những tư liệu đầu tiên nói đến Lễ Tắm Phật vào thời Tam quốc. Đến TK IV, Thạch Lặc (trị vì 319-333) của nhà Hậu Triệu đã tổ chức lễ tắm Phật. Phần tiểu sử ngài Phật Đồ Trừng trong Cao tăng truyện có ghi lại rằng Thạch Lặc thường gởi con mình vào các tu viện nhờ các nhà sư nuôi dưỡng và dạy dỗ. Mỗi khi đến ngày mồng tám tháng Tư, đích thân Thạch Lặc đến tu viện dự lễ tắm Phật để cầu phước báu cho con mình[8]. Phật tổ thống kỉ cũng ghi rằng ngày mồng tám tháng tư năm thứ sáu niên hiệu Đại Minh (462), vua Hiếu Võ Đế thiết lễ tắm Phật và lễ cúng dường chư Tăng ngay trong hoàng cung[9]. Như thế, đến thời Nam Bắc Triều, lễ tắm Phật không những được tổ chức trong các tu viện Phật giáo mà ngay cả trong hoàng cung. Do ảnh hưởng của sự khác biệt về quan điểm lịch sử của các tông phái Phật giáo tại Ấn Độ về ngày tháng Đản sanh của Đức Phật[10] và cũng do những tác động của xã hội và văn hóa Trung Hoa trong nhiều giai đoạn khác nhau, nên ngày Lễ Tắm Phật tại quốc gia này được tổ chức vào nhiều thời điểm trong các thời đại khác nhau. Dưới thời Nam Bắc Triều (386-577), Lễ Tắm Phật được tổ chức vào ngày mồng tám tháng Tư. Từ đời nhà Lương (502-557) cho đến đời nhà Liêu (916-1125), lễ này lại được diễn ra vào ngày mồng tám tháng Hai[11]. Song vào đời nhà Tống (960-1279) lễ được tổ chức vào ngày mồng tám tháng Chạp tại miền Bắc, nhưng ở miền Nam thì là ngày mồng tám tháng Tư. Sách Đông kinh mộng hoa lục ghi lại Lễ Tắm Phật vào cuối đời Tống rằng vào ngày mồng tám tháng Tư, cứ mỗi một trong số mười thiền viện lớn tại Lạc Dương đều tổ chức Lễ Tắm Phật và cúng dường chư Tăng[12]. Nghi thức Lễ Tắm Phật cũng là một phần quan trọng trong bộ Bách Trượng thanh quy, được áp dụng trong các thiền viện kể từ thời ngài Bách Trượng (749-814). Trong các đời nhà Minh, Thanh, Lễ Tắm Phật đều được tổ chức vào ngày mồng tám tháng Tư. Trong số những bản kinh có ảnh hưởng nhiều đến cách thức tổ chức và ý nghĩa của Lễ Tắm Phật tại Trung Hoa, thì kinh Công đức tắm Phật là bản kinh được biết đến nhiều nhất.

Kinh Công đức tắm Phật (Dục Phật công đức kinh, T16n698) được ngài Nghĩa Tịnh dịch từ nguyên bản Phạn ngữ sang Hán ngữ vào năm 710. Đây là một bản kinh ngắn và hiện thời chỉ còn lưu lại trong đại tạng Trung Hoa. Nội dung của bản kinh này rất giống với kinh Công đức tắm tượng (Phật thuyết dục tượng công đức kinh, T16n697) do ngài Bảo Tư Duy (Manicintana?) đến từ Ấn Độ dịch vào năm 705. Riêng bài kệ nói về lý duyên sinh trong kinh lại giống với bài kệ trong kinh Công đức tạo tháp (Phật thuyết tạo tháp công đức kinh, T16n699) cũng do một nhà sư Ấn Độ, ngài Địa-bà-ha-la (Divākara) dịch vào năm 680.
wwwTP (7).jpg
Lễ Tắm Phật
Kinh Công đức tắm Phật được mở đầu với hai câu hỏi chính của Bồ-tát Thanh Tịnh Huệ: 1. Do đâu mà chư Phật thành tựu sắc thân thanh tịnh, đầy đủ tướng tốt? 2. Những chúng sanh sinh ra đời, gặp Phật và phát tâm cúng dường thì được vô lượng công đức, còn sau khi đức Phật nhập diệt, chúng sanh nên cúng dường gì, tạo công đức gì để mau chứng được vô thượng Bồ-đề? Đức Phật dạy rằng Như Lai thành tựu sắc thân thanh tịnh là do tu tập những diệu pháp cao thượng như Lục Độ, Tứ Vô Lượng Tâm, các pháp vô uý, trí tuệ… Nếu đối với các bậc giác ngộ như thế mà dùng tâm thanh tịnh để cúng dường hương, hoa… hoặc đối trước tôn tượng các Ngài mà trang hoàng, nghiêm sức, dùng hương quý, nước thơm theo nghi thức mà tắm tôn tượng, đánh trống thỉnh chuông, xưng tán công đức của Như Lai, lại phát nguyện thù thắng, hồi hướng chứng đắc trí tuệ vô thượng, thì hành giả sẽ được vô lượng vô biên công đức. Chư Phật vốn có ba thân là pháp thân, thọ dụng thân và hóa thân. Vì thế, sau khi Đức Phật nhập diệt, nếu muốn cúng dường ba thân này thì nên cúng dường xá-lợi. Song xá-lợi lại có hai loại là thân cốt xá-lợi và pháp tụng xá-lợi. Trong bảy chúng đệ tử Phật, như ai muốn tạo tượng Phật, nếu không đủ khả năng, dầu tạo một pho tượng rất nhỏ, một ngôi tháp nhỏ để tôn thờ xá-lợi nhỏ như hạt cải, hoặc lại có người chỉ chép một bài kệ tụng trong kinh rồi an trí trong tháp thì cũng giống như đang dâng cúng một viên ngọc báu vào tháp, tùy theo khả năng mà chí thành cung kính cúng dường như thế thì không khác chi như đang cúng dường hiện thân của đức Phật. Những ai chí tâm cúng dường như thế sẽ có được mười lăm công đức thù thắng sau: 1. thường biết tàm quý; 2. phát khởi niềm tin thanh tịnh; 3. tâm ngay thẳng; 4. được gần gũi bạn lành; 5; chứng huệ vô lậu; 6. thường gặp chư Phật; 7. luôn hành trì chánh pháp; 8. làm đúng với lời nói; 9. tuỳ ý sanh vào quốc độ chư Phật; 10. nếu sanh trong nhân gian thì sanh vào dòng họ tôn quý, được người khác tôn kính, khởi tâm hoan hỷ; 11. nếu sanh trong nhân gian thì tự nhiên biết niệm Phật; 12. không bị ma quân gây tổn hại; 13. hay hộ trì chánh pháp trong thời mạt pháp; 14. được chư Phật trong mười phương gia hộ; 15. mau thành tựu được năm phần pháp thân. Sau khi giảng dạy như thế, Đức Phật liền nói kệ trùng tuyên lại nghĩa trên.

Phần quan trọng thứ hai của bản kinh là lời giải đáp của Đức Phật cho Bồ-tát Thanh Tịnh Huệ về cách thức tắm tượng Phật trong đời vị lai. Đức Phật dạy rằng khi tắm tôn tượng nên dùng các loại hương thơm như ngưu đầu chiên đàn, bạch đàn, tử đàn, trầm hương, uất kim hương, long não, xạ hương… pha vào nước sạch, đựng trong bình sạch. Chọn một nơi thanh tịnh, đẹp đẽ thiết lập đàn tràng, hoặc vuông hay tròn, kích thước xứng hợp, trên đàn đặt một bệ tắm, ở giữa bệ này tôn trí tượng Phật. Khi tắm tượng thì dùng nước nóng thơm, trong sạch rưới từ trên xuống, sau đó tiếp dùng nước tinh khiết để tắm lại. Nước dùng để tắm này phải được lọc cho thật sạch để không làm tổn hại đến các vi trùng. Nếu lấy hai ngón tay thấm vào nước vừa được dùng để tắm tượng rồi nhỏ lên đầu, thì nước này được gọi là nước cát tường. Không được giẫm chân lên dòng nước tắm tượng đang chảy trên đất sạch. Sau khi tắm tượng xong, dùng khăn mềm, mịn và sạch lau khô tượng, xông các loại hương trầm thơm quanh tượng, rồi đặt tượng về vị trí cũ trong điện Phật. Đức Phật còn dạy rằng, nhờ việc tắm tượng như thế, chúng sanh trong hiện đời được nhiều phước báu thù thắng, sở nguyện thành tựu, quyến thuộc được an ổn, mau thành chánh giác. Sau khi an trí tượng về chỗ cũ, nên đối trước tượng dâng hương, chắp tay thành kính tụng bài kệ sau:

“Con nay tắm gội chư Như Lai
Công đức trang nghiêm tịnh trí đầy
Nguyện cho chúng sanh lìa năm trược
Mau chứng Như Lai tịnh pháp thân
Giới, định, tuệ… năm phần hương báu
Tỏa ngạt ngào trong khắp mười phương
Khói hương này xin hằng lan mãi
Phật sự làm vô lượng vô biên
Nguyện khổ nạn ba đường bặt dứt
Nhiệt não trừ, an trú thanh lương
Đồng phát tâm vô thượng Bồ-đề
Thoát biển ái lên bờ đại giác.”
[13]
Như thế nội dung chính của bản kinh trên nói đến công đức của những việc xây tháp thờ xá-lợi và tạo tượng Phật, cũng như nghi thức tắm Phật. Ngoài báo thân, Đức Phật còn có hai thân khác là pháp thân và ứng hóa thân. Do đó, dù Ngài đã thị hiện nhập diệt tại thành Câu-thi-na, nhưng sự giao cảm của Ngài với chúng sanh trong nhiều đời sau vẫn tiếp diễn bởi pháp thân Ngài siêu việt cả không gian và thời gian. Đức Phật xuất hiện trong đời không phải như một vị cứu tinh có đầy đủ uy quyền để ban ơn hay giáng họa, mà Ngài là một người như bao nhiêu người khác, một chúng sanh như bao chúng sanh khác. Sau khi thành đạo dưới cội bồ-đề, Ngài du hóa khắp miền Bắc Ấn với vai trò của một vị thầy tâm linh, rất bình dị và cũng rất thánh thiện. Trong cương vị của một vị Đạo sư, một đấng giác ngộ, Ngài đã trao truyền những kinh nghiệm sống, tu tập và sự thể nghiệm hương vị giải thoát cho hàng đệ tử mình và những ai hữu duyên. Trong đạo Phật, nhân tố trọng tâm không phải là đức Phật mà là giáo pháp, đây chính là điểm khác biệt giữa Phật giáo với các truyền thống tôn giáo khác. Pháp mà Đức Phật đã tuyên thuyết là vô giá, đó là phương tiện để đưa đến sự thanh tịnh và an lạc viên mãn trong đời sống tâm linh, mà đức Phật và các bậc thánh Tăng là những minh chứng rõ nét nhất. Giáo pháp của Đức Phật do vậy cũng có giá trị tương đương với xá-lợi của Đức Phật. Như trong bản kinh trên đã đề cập, người Phật tử tỏ lòng tôn kính và niệm ân Đức Phật qua việc xây tháp thờ xá lợi, tạo tôn tượng để thờ phụng, nhưng sự tôn kính và báo ân như thế sẽ mang ý nghĩa chân chính và cao thượng hơn nếu họ biết giữ gìn, hành trì và truyền bá Chánh pháp.

Như đã trình bày, nghi thức tắm tượng Phật được mô tả trong bản kinh trên là một trong những nét sinh hoạt tự viện tại Ấn Độ mà ngài Nghĩa Tịnh đã ghi lại trong ký sự của mình. Cách thức thực hành như thế không phải chỉ thuần túy là một nghi thức truyền thống đơn thuần mà còn là một pháp môn tu tập của chư Tăng Ni và người Phật tử. Báo thân của Đức Phật đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, tâm Ngài thanh tịnh vô nhiễm và nhu nhuyến, pháp thân Ngài thì bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, cho nên việc tắm Phật là một cơ hội để hành giả thực tập nếp sống chánh niệm, trau dồi lòng khiêm cung, hướng tâm nhiệt thành đến Đức Phật, hay nói cách khác, hướng đến sự viên mãn của đức hạnh và trí tuệ. Những dụng công trên của mỗi người tham dự lễ sẽ là những yếu tố tối quan trọng để họ tự chuyển, điều phục và thăng hoa tâm thức của mình. Trong biển sanh tử chập chùng, do vô minh sai sử, nên chúng sanh tạo vô số oan nghiệp, tâm thức luôn bị vẩn đục bởi những tố chất nhiễm ô của phiền não, tà kiến. Do vậy, mỗi khi được tắm Phật, tâm họ được lắng đọng trong niềm tôn kính thanh tịnh. Đó là cơ duyên hy hữu để mỗi người gội rửa thân tâm, sám hối những lỗi lầm trong bao đời, để từ đây hướng đời mình đến sự tịnh hóa ba nghiệp, từ bỏ những niềm vui tầm thường, mong manh thế tục để tìm đến niềm an lạc đích thực của tâm hồn.

Nhưng điều độc đáo ở đây là trong khung cảnh của buổi lễ thật trang nghiêm, thanh tịnh đó, trong năng lực thành kính của đại chúng trong pháp hội, hành giả phát khởi Bồ-đề tâm, đại bi tâm hướng về pháp giới chúng sanh với một tâm hồn thanh khiết và thành kính. Đây chính là động lực có một sức mạnh kỳ diệu để giúp hành giả an trú vào chân tâm của mình mà khởi lên đại nguyện theo gương các bậc hiền nhân. Như thế, từ việc tắm tôn tượng Phật, hành giả lại có nhân duyên lớn để gội rửa tâm thức của chính mình, hầu trở về với Phật tánh thanh tịnh đang hiện hữu trong mình. Bàn về ý nghĩa của việc tắm Phật, ngài Nghĩa Tịnh đã viết rằng: cội gốc của sự tôn kính, không gì bằng tôn kính Tam bảo, tu tập quán tưởng, không gì bằng quán tưởng Tứ đế, nhưng chân lý thì uyên áo mà phàm tâm thì vướng phải nhiều ngoại duyên. Do vậy, nghi thức tắm rửa tôn tượng thật thiết thực và thích hợp. Dầu Đức Phật đã nhập diệt nhưng hình tượng Ngài vẫn còn, nên phải đối với tượng khởi tâm kính thành như thể Ngài đang hiện hữu. Hoặc có người mỗi ngày dùng hương hoa dâng cúng để khởi tâm thanh tịnh, lại có người siêng năng tắm rửa tượng để tự gội rửa nghiệp chướng hôn mê, dụng tâm thực hành như thế thì tự thân được lợi ích rất nhiều, khó mà thấy biết được. Còn như khuyến hóa người khác thực hành theo thì bản thân cũng được nhiều công đức và lợi ích[14].
Là một lễ nghi có từ lâu đời và là phần thiết yếu của lễ hội Phật đản, Lễ Tắm Phật xuất hiện rất phổ biến trong các nước Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền. Riêng tại Việt Nam, lễ nghi này thường được tổ chức vào các ngày khác nhau, nhưng phổ biến nhất là ngày mồng tám tháng Tư, trong dịp Lễ Phật đản mỗi năm. Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt sử lược đều ghi lại rằng vào ngày mồng tám tháng Tư năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Nhân Tông đã dự xem Lễ Tắm Phật [15]. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư, cứ mỗi tháng vào các ngày rằm, mồng một, và đặc biệt ngày mồng tám tháng Tư, nhà vua thường đến chùa Diên Hựu để làm lễ cầu phúc, thiết nghi tắm Phật[16]. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh cũng nói đến việc nhà vua tổ chức lễ cầu an và thiết nghi tắm Phật vào các ngày mồng một và vào mùa xuân. Như thế, đủ để thấy dưới triều Lý, đặc biệt là dưới thời vua Lý Nhân Tông, ngoài lễ Phật đản, lễ tắm Phật cũng được phổ biến trong các sinh hoạt của Phật giáo. Lễ Phật đản cũng như lễ tắm Phật ngay từ thời Lý không chỉ đơn thuần là một nghi lễ của cộng đồng Phật giáo mà nó đã trở thành những sinh hoạt văn hóa chung trong dân gian. Điều này được ghi lại trong Lĩnh Nam trích quái như sau:“Ngày mồng tám tháng Tư, Man nương tự nhiên mà thác sinh lên trời, linh xác gói chôn trong chùa. Nhân dân lấy đó làm ngày sinh của Phật. Hàng năm cứ đến ngày này trai gái, già trẻ bốn phương tụ tập về chùa để vui chơi, ca múa các trò đàn địch mãi thành tục lệ, gọi là “hội tắm Phật”, đến nay lệ vẫn còn.”[17] Sự dung hòa giữa văn hóa Phật giáo nói chung và Lễ Tắm Phật nói riêng trong xã hội Việt Nam thời xưa đã được Lê Tắc ghi lại trong mục “Phong tục”, phần nói về phong tục dân gian của xã hội An Nam trong tác phẩm An Nam chí lược như sau: “Mồng tám tháng Tư, mài trầm hương và bạch-đàn-hương, dầm nước tắm rửa tượng Phật và dùng thứ bánh giầy mà cúng Phật. Tiết Đoan-Dương (mồng năm tháng năm), làm cái nhà gác ở giữa sông, vua ngồi coi đua thuyền. Ngày Trung-Nguyên, lập hội Vu-Lan-Bồn, để cúng tế, siêu độ cho người chết, tốn hao bao nhiêu cũng không tiếc.”[18] Tác phẩm này cho thấy một điều hết sức độc đáo là ngay từ thời Lý-Trần, việc dùng các loại hương thơm dầm nước để tắm tượng Phật, đúng như cách thức được mô tả trong kinh Công đức tắm Phật như trên đã được thực hiện phổ biến trong dân gian. Điều đó cũng đủ cho thấy sự phổ biến của nghi thức này trong các sinh hoạt văn hóa bản xứ.

Trải dài theo dòng lịch sử dân tộc, ngày Lễ Phật đản cùng nghi thức Tắm Phật đã trở thành một nét sinh hoạt tâm linh cao đẹp trong xã hội Việt Nam. Đối với người Phật tử, sự tôn kính, lòng nhiệt thành đối với Đức Phật trên nền tảng của chánh kiến mới thực sự mang lại cho họ một niềm tin trong sáng và sự an lạc đích thực, lâu dài. Mỗi khi dâng một nén hương, một đóa hoa, một phẩm vật lên Đức Phật, hay khi rưới những dòng nước tinh khiết lên tôn tượng của Ngài, đó chính là nhân duyên thù thắng để mỗi người quay về với chính mình, hầu tự sách tấn, tự trang nghiêm cho bản thân bằng hương đức hạnh, bằng hoa trí tuệ, và bằng nước nhẫn nhục, từ ái, tùy thuận thích ứng với mọi nhân duyên, ngay cả chướng duyên để hướng đến một nếp sống hướng thượng, tỉnh giác. Phải chăng chính những lúc đó, mỗi người đang tự tắm Phật trong từng sát-na của đời mình?
Thích Đồng Thành (Pháp Luân)
giacngo.vn